Thứ Hai, 29 tháng 6, 2009

bừa

Có những người mình yêu
Nhưng mà không... lừa được
Có những người yêu mình
Nhưng mà không bừa được
(Designer C.A chế lại của văn sĩ Nomad ;))

Còn ai trong cũi

Bỗng dưng mà nhớ Nguyễn Du
Mà thương sông Dịch gót tù mơ qua

Biết mình để tránh bệnh tự mê hoặc

Rating:★★
Category:Other
Có một truyện cười dân gian Việt Nam, ý khá sâu sắc, tôi dựa theo bản trong tập sách in ra ở NXB Văn học từ 1985, tạm kể tóm tắt như sau: Một anh ngủ mê đến nỗi anh em bạn đùa cạo trọc đầu rồi khiêng bỏ ra chùa cũng không biết. Anh ta tỉnh dậy, thấy mình đầu trọc, lại nhìn cảnh chùa chung quanh, tự hỏi không biết mình là ai, có liên quan gì tới con người hôm qua.

“Ta hay sư?... Ta hay sư?”. Miệng lẩm bẩm mà lòng anh canh cánh một nỗi lo, lo rằng chính mình không còn là mình.

Muốn khỏi phân vân, anh ta nghĩ, cứ về nhà thì biết. Quả nhiên lo là đúng. Con chó thấy anh đầu trọc khác thường xô ra cắn.

Anh biết từ nay mình không còn là mình nữa, nên bỏ nhà đi thẳng.

Phần lớn truyện cười ở ta dành để chế nhạo thói xấu lặt vặt của con người, những anh chàng nói phét gặp thời, những thầy đồ ăn vụng... Khi tiếng cười cất lên quá dễ dãi cũng là lúc ta nhận ra đời sống tinh thần con người vừa cười đó nhiều phần nông nổi, tẻ nhạt.

Sau cái vẻ hơi khó cười - may lắm chỉ gây những tiếng cười thầm - truyện trên đây đặt vấn đề về tự nhận thức. Con người ta có khi không còn là mình mà không hay biết. Người tỉnh táo phải biết ghi nhận những đổi thay đã tới với bản thân. Phải nhìn vào chung quanh để tự kiểm tra lại.

Vấn đề tự nhận thức ấy cũng được đặt ta trong một truyện ngắn của Thạch Lam mang tên Người bạn cũ in trong tập Gió đầu mùa (1937).

Nhân vật xưng tôi trong truyện ngắn này từ chỗ hăng hái trên con đường dấn thân vào hoạt động cho tiến bộ xã hội, quay trở lại đời sống trưởng giả nơi tỉnh lẻ. Bỗng một người đồng chí cũ (chữ đồng chí này là của Thạch Lam trong nguyên bản) gõ cửa ngôi nhà yên ấm của anh. Bạn gái Lệ Minh trong cảnh khốn quẫn đến tìm anh, trông chờ sự giúp đỡ.

Nhân vật chính sau khi lặng lẽ khước từ người bạn ấy, quay về đối diện với mình. Anh ta lặng lẽ đặt câu hỏi, giữa con người tranh đấu của mình hôm qua và con người trưởng giả hôm nay, đâu là con người thực?

“Tôi không dám trả lời”. Thiên truyện kết thúc bằng một câu lửng lơ như vậy.
Mỗi khi nhắc tới Thạch Lam, người ta hay nhắc Gió đầu mùa, Cô hàng xén, Nhà mẹ Lê hay Hà Nội băm sáu phố phường. Còn Người bạn cũ thuộc loại ít ai đọc và nhớ. Nhưng tôi cho rằng thiên truyện có giá trị ở chỗ đã ghi nhận một mẫu tư duy hiện đại khi mà, từ xã hội trì trệ hôm qua bước ra, các cá nhân trải qua những thăng trầm khiến cho nhiều khi trong một cuộc đời thành ra có nhiều cuộc đời, dưới một cái hình hài tên tuổi nhãn mác chung thực ra nối tiếp tồn tại những con người khác, thậm chí đối lập nhau nữa.

Thông thường trong khi giải quyết đề tài này, các nhà văn chỉ đặt vấn đề đạo đức. Đại khái là sau khi rơi vào tình thế rất kịch như trên, nhân vật có thoáng qua một chút hối hận, để rồi lại tìm ra đủ thứ lý do biện hộ, và mọi chuyện đâu vẫn vào đấy.

Nhân vật trong truyện của Thạch Lam không chỉ đối phó với cái tình thế trước mắt. Mà sau một cuộc kiểm chứng, anh ta muốn có một cái nhìn chung về con người bản thân. Khi tự thú rằng chưa biết trả lời ra sao - một suy nghĩ rất lương thiện - thật ra anh ta đang đi dần tới sự tự chủ để có được cách hành động thích hợp trong quãng đời còn lại. Kể cả khi cứ con đường cũ mà đi thì đó vẫn cứ là một nhân cách đáng trọng.

Con người thời nay đã quá khôn ngoan. Giả sử bây giờ tôi ngớ ngẩn lên tiếng khuyên ai đó hãy lo tự nhận thức, thì người ấy sẽ lập tức đáp trả lại rằng “biết người biết mình là chuyện tối thiểu trong trường đời, có ai còn lạ mà ông phải dạy đĩ vén váy”.

Thế nhưng theo sự quan sát của tôi thì trước nhu cầu tự nhận thức hiện nay thường có mấy đáp án phổ biến:

Một là, nói cho xong chuyện, chứ thực ra người ta rất ngại ngồi đối diện với mình, tự vấn lương tâm mình. Trong khi mải mê hành động, họ coi chuyện tự tìm hiểu chính mình chỉ là chuyện xa xỉ của những người rỗi hơi ngồi mà nghĩ quẩn.

Hai là, nhiều người tự mê hoặc, tin chắc rằng mình sống chỉ có đúng, làm việc gì chỉ có lương thiện tốt đẹp vì những điều cao cả. Với họ con người ta chỉ cần xuất phát từ một “cái tâm trong sáng” là đủ, không thể có chuyện một động cơ đúng đắn, nếu không biết thực hiện, lúc nào cũng có thể dẫn đến những kết quả tai hại.

Ba là, mỗi người chỉ công nhận có một con người duy nhất ở mình, lại tưởng hôm qua thế nào hôm nay vẫn thế. Có thể họ cũng từng có một quá khứ tốt đẹp. Chỉ có điều sau đó, trước những hư hỏng không thể chối cãi, thì họ lảng tránh. Làm nền cho mọi sự dối trá càn rỡ là một lối nghĩ khô cứng. Những khái niệm như tha hóa không thể có chỗ đứng trong suy nghĩ của họ về bản thân.

Xin miễn bình luận về tác hại của những con người như thế trong đời sống. Họ khá đông đảo. Về mặt văn hóa, tôi chỉ muốn nói trình độ làm người của họ là thấp hơn so với nhân vật của Thạch Lam, thậm chí là thấp hơn cả nhân vật trong truyện cười dân gian trên đây vừa kể.

Vương Trí Nhàn (http://www.thesaigontimes.vn/Home/vanhoadulich/vanhoa/20446/)

Thứ Ba, 23 tháng 6, 2009

Niềm vui của ngày của tháng của em

Là một con gấu chổng mông. Con gấu bé (anh thấy em bé xíu anh thương ;). Cỡ hai gang tay thôi. Chẳng thèm ngồi đàng hoàng giơ hai tay (!) hai chân ra như các bạn gấu khác, hắn bò như bé sơ sinh, mông chổng lên (trời) nhìn ngây thơ thấy ghét. Cái đầu ngoắc qua phải, ngơ ngơ ngác ngác.
Thấy thích quá nên muốn có (!), nhưng tự đi mua cho mình thì thấy …sao sao đó, bèn dụ người dễ dụ ;))
Kết quả là mình đang có một con gấu chổng mông, nhìn thương quá chừng!
Giữa tháng năm già cỗi, cảm ơn một niềm vui con nít. Cảm ơn có người chịu bị mè nheo!

Thứ Hai, 22 tháng 6, 2009

nhớ táo

Quả táo xanh đã bỏ mảnh vườn
Gió vẫn thổi trong vòm cây bé

Chữ

Vườn vườn rậm chữ
Hàng hàng văn tự đá xô nhau
Tung tẩy trò huyễn hóa
Gieo hề gieo

Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2009

19.6.09

Đời sống hỡi thăng trầm như khóc được
Mà sao lòng còn tơ sợi thơ ngây (Hà Thúc Sinh)

Thứ Hai, 15 tháng 6, 2009

Tự do khỏi nỗi khiếp sợ

Rating:★★★
Category:Other
Sự dũng cảm của một số ít người dũng cảm đang (và luôn) bị thử thách.

Post lại bài tiểu luận (trích) của Aung San Suu Kyi - người đoạt giải Nobel Hòa Bình năm 1991:

Không phải quyền lực làm cho tha hóa, mà chính là sự khiếp sợ. Sự khiếp sợ đánh mất quyền lực làm tha hóa những kẻ đang nắm trong tay quyền lực và sự khiếp sợ bị quyền lực trừng phạt làm tha hóa những người đang nằm dưới tay quyền lực.

[...] Không có gì phải ngạc nhiên là ở bất kỳ xã hội nào, khi sự khiếp sợ lan tràn, tha hóa dưới mọi hình thức sẽ bám rễ sâu trong lòng xã hội.

[...] Bogyoke Aung San coi mình là một nhà giải phóng và không ngừng tìm kiếm câu trả lời cho những trở ngại mà Miến Điện gặp phải trong thời khắc thử thách của dân tộc. Ông hô hào đồng bào mình hãy can đảm hơn: “Hãy đừng lệ thuộc vào lòng can đảm và tinh thần dũng cảm của người khác, mỗi người trong các bạn hãy biết hi sinh để trở thành một anh hùng và tạo dựng sự dũng cảm và can đảm của chính mình. Chỉ đến khi đó chúng ta mới có thể cùng chung hưởng tự do thực sự”.

Nỗ lực cần thiết để tránh không bị tha hóa - trong một môi trường mà sự khiếp sợ là một phần máu thịt của sự tồn tại hàng ngày - không tức khắc rõ ràng với những người có may mắn sống trong những nhà nước có sự hiện diện của pháp quyền (rule of law). Luật pháp công minh không chỉ ngăn chặn sự tha hóa thông qua việc trừng phạt không thiên vị những kẻ phạm pháp. Luật pháp còn giúp tạo dựng một xã hội mà trong đó mọi người có thể thỏa mãn những yêu cầu căn bản - vốn thiết yếu cho việc bảo tồn nhân phẩm con người mà không cần phải cầu viện đến những hành vi tha hóa. Khi thiếu vắng luật pháp như thế, gánh nặng gìn giữ các nguyên tắc của công lý và sự đoan chính chuyển sang vai những con người bình thường. Chính hiệu ứng tích lũy những nỗ lực bền bỉ và sự nhẫn nại sẽ thay đổi một dân tộc - nơi lý trí và lương tri bị bóp méo bởi sự khiếp sợ - sang một xã hội mới - nơi luật pháp tồn tại là để đáp ứng khát vọng của con người về sự hòa hợp và công lý, trong khi giúp ngăn chặn những tính ác trong bản chất thiên bẩm của con người.

Trong một thời đại mà sự phát triển lớn lao của kỹ nghệ đã tạo ra những vũ khí chết người - những thứ có thể được, và đang được, những kẻ nắm quyền vô đạo dùng để thống trị kẻ yếu và không có khả năng tự vệ, có một đòi hỏi cấp thiết về mối quan hệ gần gũi hơn giữa chính trị và đạo đức, trên cả cấp độ dân tộc và quốc tế.

Tuyên Ngôn Nhân Quyền Toàn Cầu của Liên Hợp Quốc khẳng định rằng tất cả mọi người và mọi hợp phần của xã hội phải đấu tranh nhằm thúc đẩy tự do và các quyền cơ bản mà theo đó mọi người, bất kể chủng tộc, quốc gia và tôn giáo đều được hưởng. Tuy nhiên, chừng nào còn tồn tại các chính quyền được thiết lập dựa trên sự áp bức thay vì sự chấp thuận của công chúng, chừng nào còn tồn tại các nhóm lợi ích chỉ biết đặt lợi ích trước mắt lên trên hòa bình và thịnh vượng lâu dài, thì hành động phối hợp quốc tế bảo vệ và phát huy quyền con người bất quá chỉ là một nửa cuộc đấu tranh. Vẫn sẽ có những đấu trường nơi các nạn nhân của bạo quyền phải tự dựa vào những nội lực của chính họ để bảo vệ các quyền bất khả nhượng với tư cách là những thành viên của gia đình nhân loại.

Cuộc cách mạng rốt ráo là cuộc cách mạng trong tinh thần, được khai sinh từ niềm tin trí tuệ về nhu cầu cần phải thay đổi các thái độ và các giá trị - những thứ định hình tiến trình phát triển của một dân tộc. Một cuộc cách mạng chỉ tập trung vào thay đổi các chính sách của nhà nước và các thể chế, với mục tiêu cải thiện các điều kiện vật chất, sẽ chỉ có rất ít cơ hội thành công thực sự.
Thiếu vắng cuộc cách mạng trong tinh thần, nguồn gốc tạo ra cái vô đạo của trật tự cũ vẫn sẽ tiếp tục vận hành, gây ra một đe dọa thường trực cho quá trình cải cách và phục hồi. Sẽ không đủ nếu chỉ cổ súy cho tự do, dân chủ và các quyền con người. Cần có quyết tâm thống nhất nhằm duy trì cuộc đấu tranh, chấp nhận hi sinh vì chân lý vững bền, chống lại các ảnh hưởng tha hóa của lòng ham muốn, của ác ý, của si đần và sự khiếp sợ.

[...] Trong số những sự tự do cơ bản mà con người mong ước nhằm tạo dựng một cuộc sống tràn đầy và không bị trói buộc, tự do khỏi khiếp sợ nổi lên là một phương tiện, đồng thời là mục đích. Một dân tộc muốn xây dựng một đất nước mà trong đó các thể chế dân chủ mạnh được xây dựng bền vững như là một bảo đảm chống lại sự lạm quyền của nhà nước thì trước hết phải học cách giải phóng tâm mình khỏi sự vô cảm và sự khiếp sợ.

[...] Nehru, người nhìn nhận việc lan truyền lòng can đảm trong dân chúng Ấn là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của Gandhi, là một nhà chính trị canh tân, nhưng khi ông tiếp cận với các đòi hỏi của phong trào đòi độc lập trong thế kỉ hai mươi, ông đã nhận thấy là mình quay trở về với triết học cổ điển Ấn: “Món quà lớn nhất cho một cá nhân hay một dân tộc… là Abhaya, không khiếp sợ, không thuần túy là sự can đảm bề ngoài, mà còn là sự vắng bóng sự khiếp sợ trong tâm”.

Sự can đảm có thể là một món quà, nhưng có lẽ còn quý giá hơn nếu can đảm được khơi lên từ sự nỗ lực, thứ can đảm đến từ việc gieo trồng thói quen không để sự khiếp sợ kiểm soát hành vi của mình, thứ can đảm có thể được miêu tả bằng “tự tại trước áp lực” – sự tự tại được làm mới liên tục ngay khi đối mặt với những áp lực căng thẳng và dai dẳng.

Trong một hệ thống chính trị luôn chối bỏ sự tồn tại của các quyền con người cơ bản, sự khiếp sợ có vẻ như là thuộc tính nổi bật. Sợ tù đày, sợ tra tấn, sợ cái chết, sợ bị mất đi những bạn bè, gia đình, tài sản hay phương tiện sống, sợ đói nghèo, cô lập, trước thất bại. Hình thức quỷ quyệt nhất của sự khiếp sợ là hình thức ngụy trang dưới mặt nạ common sense (lẽ thường) hoặc thậm chí là sự thông thái, kết án những hành vi can đảm bé nhỏ thường nhật – những hành vi giúp bảo toàn niềm tự trọng và phẩm giá ẩn chứa trong mỗi con người – là [những hành vi] ngu ngốc, khinh suất, không đáng giá hoặc vô ích. Không dễ dàng để quần chúng đang khiếp sợ dưới sự cai trị hà khắc hiểu rằng họ có thể tự giải thoát mình khỏi bầu khí độc của sự khiếp sợ hãi đang làm họ kiệt sức. Ấy thế mà ngay cả khi dưới sự đàn áp của những bộ máy cai trị hà khắc nhất, tinh thần can đảm vẫn trỗi dậy hết lần này qua lần khác, vì sự khiếp sợ không phải là trạng thái tinh thần tự nhiên của một người văn minh.

Suối nguồn của lòng can đảm và sự vững vàng trước bạo quyền vô hạn độ thường là lòng tin son sắt vào các giá trị đạo đức thiêng liêng kết hợp với sự hiểu biết lịch sử rằng dù cho mọi khó khăn, lịch sử loài người được đặt trên một lộ trình duy nhất là sự tiến bộ cả về tinh thần lẫn vật chất. Chính khả năng tự cải biến và sửa sai là yếu tố quan trọng nhất phân biệt con người với con vật. Cội rễ của trách nhiệm người là khái niệm hoàn mỹ, sự khao khát đạt được nó, sự thông tuệ để tìm đường đến với nó, và sự sẵn lòng đi theo con đường đó cho tới đích cuối cùng, hoặc ít ra cũng đi được khoảng cách cần thiết để vượt lên trên các giới hạn cá nhân và các trở ngại của môi trường.

Chính viễn kiến của con người về thế giới tương thích với nhân tính duy lý và văn minh đã dẫn chúng ta đến chỗ dám chịu đựng mất mát để xây dựng các xã hội tự do khỏi đói nghèo và khiếp sợ.

Các khái niệm như sự thực, công lý và lòng trắc ẩn không thể bị loại trừ vì lặp đi lặp lại quá nhiều trong khi chúng thường là những bức tường thành duy nhất hiên ngang chống lại bạo quyền.

Aung San Suu Kyi - Lâm Yến dịch

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2009

chế

Người quá chừng lưỡng lự
Hay sợ em nửa chừng do dự
người hùng ơi! ;))

10.6.09

...bầu trời có thể mọc lông tơ như mênh mông một tấm da người (Lãng Thanh)

Thứ Ba, 9 tháng 6, 2009

Thơ Goldmund

Đã bao lần ta trúng thương, bởi những ngọn giáo múa xiên ký ức, những ngọn gió thổi mềm ký ức - là thơ? 

Đi lang thang được gặp, ở blog một người quen tên:

Con chim trúng thương
Ngày sắp thức dậy
Anh đi ra đường không no không đói
Khoác trên vai dăm ba trò đùa
Một lời tỏ tình bị từ chối
Và những cơn ác mộng đêm qua
Anh đi đến bao giờ gặp đêm
Cỏ, sương, sao ngấn ánh trăng mềm
Chiếc lá thiền môn rụng canh gà gáy
Ngày khẽ bảo:
- Về đi! Con chim trúng thương.

Nỗi Buồn
1.
Con gián lưng nâu, bụng nâu nhấm nhấm ngón chân tôi
Hệt như tôi nhấm nhấm nỗi buồn
Nỗi buồn không có gì vĩ đại
Quẳng được đi mà sống thì hơn
2.
Nỗi buồn làm tổ không cần nguyên cớ
Tôi quất nó vài roi, nó bỏ đi rồi lại quay về
Đời thiếu chi nơi trú ngụ
Hay tại tôi quá chừng quyến rũ
Nỗi buồn ơi
3.
Tôi ôm chầm nỗi buồn không nói năng chi
Nó ngước mắt bảo tôi đừng buồn nữa!
Ôi lời khuyên cắc cớ
Khiến lòng tôi úa đi như cỏ
Khiến lòng tôi day nhớ
Một người đã quá xa.

Tiếng Chuông
1.
Khi nào chợt không vui
Em hãy dang tay gõ vào ký ức
Sẽ vang lên tiếng chuông ngần
2.
Nếu cộng anh vào nỗi buồn
Sẽ thành: nỗi buồn gấp bội
Sao em đang tay đánh vào trái tim
Anh còn bao điều chưa nói
Đã lịm vào hoài niệm
Đậm đầy sương khói
3.
Khi nào em ghé thăm
Chỗ trú anh và cất giấu nỗi buồn
Bức tường găm đầy mảnh chai nói rằng anh đi vắng
Em sẽ làm gì sau tiếng chuông?