Hiển thị các bài đăng có nhãn tho. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tho. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 25 tháng 7, 2023

Hạnh phúc này như sóng rã trên sông


Thơ hay ngẫu nhiên đọc, chép lại cho một ngọn lửa tàn, của bạn:

[..]
Ta gặp em như gặp người thứ nhất
Em gặp ta như gặp kẻ cuối cùng
Những đêm đó, một vành trăng đã khuyết
Làm hoang đường những mộng mị trăm năm

Biết đã trễ nên không thèm hối hả
Cuộc tình này như chút đỉnh khoan dung
Của định mệnh cũng có lần nới thả
Hạnh phúc này như sóng rã trên sông

Lòng hoài vọng những điều không rõ rệt
Buồn quá nên yêu, yêu quá nên buồn
Việc vô ích mà ta công kỹ nhất
Thân thế ta, ta đổi tiếng cười suông

Như yêu lại một người yêu thất tiết
Xót xa này chan đổ muối trong lòng
Đời lỡ vận một lần nên lỡ miết
Chí lớn đành đốn sập đốt ra than
[..]  

(Trích Chuyện tình người lỡ vận, Tô Thùy Yên)

Thứ Tư, 6 tháng 4, 2022

Ngày mưa đọc thơ Nhiên

Nay nghe một bài nhạc phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên, có cảm hứng đọc thơ chàng.
Người ơi, sao buồn thế từ lúc cửa hồn chưa bám bụi...
Thương ai ngồi nghe từng gốc tóc/ bạc phần đời quạnh hiu, thương một quê hương điêu tàn và một cõi lòng nhiều tan vỡ... trong thơ.

Nỗi hiu hắt cô đơn cứ bao trùm dù đang tìm kiếm hay đắm đuối trong những ấm cúng giữ gìn nhau. Những u tình luyến thương vĩnh biệt giăng mắc trùng điệp chữ - xuống - hàng như tiên cảm mọi thứ đều sớm chìm rơi trong nỗi chết. Nhân sinh, hay chính thơ chàng, hay chính ái tình, là một dòng sầu miên man đến cuối? Những ngùi trông, luýnh quýnh, hư hao; những tha thiết não nùng u uất ủ dột khổ đau ngậm đắng thở than... của các cung bậc tình ái có hết trong cõi thơ ấy, cõi yêu của ta là chim tuyệt vọng bỏ quên trời.

1 bài tình buồn rất "Tất Nhiên":

Ôi những hàng cây ngơ ngẩn ngơ
Có khổ đau nghe lá hững hờ
Có như ta nửa đời hiu hắt
Muốn chết, sau đôi bận giã từ?
Ôi những hàng cây im đứng im
Ngùi tưởng bao nhiêu lá phụ tình
Có như ta đứng - tàn mơ mộng
Máu vẫn loang từ vết nhân duyên?
(Trích Tàn thu)

Mỗi đời tình, có một thú, chia lyTình xa như bóng nắng để Buồn tôi như bóng lặng lờ in...Thế mà, chàng yêu để mà chi?

Để: Hồn sầu ta bỗng nở/ Thêm một đóa u buồn

Tôi ít đọc thơ Nguyễn Tất Nhiên vì không muốn ngắm đóa u buồn ấy, nhưng nay thương một ngày mưa mà mải miết tìm, tìm chút vui chàng đã trải, để mừng cùng thi ảnh còn "dậy tiếng mừng" của Nhiên:

Sáng hôm nay có đôi chim se sẻ
ngồi gần nhau như bữa nọ tình ta
chúng chẳng biết chi khổ đau và hạnh phúc
nhưng anh tin rằng chúng biết thứ tha…

Sáng hôm nay khi không bỗng thấy
cửa sổ nào khoảng khoát lại hồn anh
những lòng đường nghe từng lá cây xanh
thương bất cứ bàn chân nào đi bộ…

Sáng hôm nay có đôi chim nho nhỏ
mớm mồi nhau bắng nhắng cả tỉnh vui
chúng cóc biết trời trăng chi hai mà một
Nhưng kìa xem… mỏ chúng mềm như môi…

Sáng hôm nay chưa chi phát nhớ
đôi mắt nào ấm cúng giữ gìn nhau
chúng hỏi với nhau, nào muốn chi nào?
chúng láu cá chơi cái cái tình xí hụt!
Tình yêu dạy anh điều nhẫn nhục
đau khổ dạy anh điều cảm thông
hạnh phúc dạy anh điều ban phát
em dạy anh tất cả, phải không?

Sáng hôm nay anh muốn ai cũng biết
bàn tay nào tươm tất lại đời anh
như những ngã tư cần phải đỏ, vàng, xanh
cho trật tự những thắng, ga, sang số...
(Bài có cái tựa hay: Mới thức)

Giữ cho nhau một chút tình
Giữ cho nhau một ánh nhìn thiên thu
Giữ long lanh, giữ sa mù
Giữ phai nhạt, giữ đền bù nhạt phai
Giữ hương cho thở ngây ngây
Giữ hiu hiu gió đượm dài luyến lưu
Giữ sương mai, giữ sương chiều
Giữ sông trong giọt lệ sầu xưa, sau
Giữ cho nhau một chút nào
Giữ duyên đáp nghĩa đền câu phụ lòng
Giữ thơm không khí phiêu bồng
Giữ mây cho khói mang hồn sông theo
(Tâm hương)

Em có trăng rằm trong đáy mắt
Hồn anh từ đó khảm muôn sao
Tình anh là một trời trong vắt
Chẳng gợn mây, không sợi vẩn nào...

Em có mặt trời trong ánh mắt
Tim anh ngàn phượng nở bâng khuâng
Đường quê tình tự trong anh bỗng
Trùng điệp ve ran dậy tiếng mừng...

Em có sân trường trong mắt nắng
Có trăng huyền thoại tế trung thu
Có sông đời chợt reo vui thác
Là có tình anh đấy - biết đâu!
(Tâm Xuân)

Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu dòng sông
Ngậm ánh trăng non bàng bạc đêm rằm
Sông chở phù sa về ươm lộc mới
Chàng chở tình về cho mắt em ngoan
Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu áng mây
Lãng đãng trôi xuôi ngọn thuở mộng dài
Mây ủ mưa hồng thơm hoa kết trái
Chàng ủ tình hồng thả tóc em bay
Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu giọt sương
Sớm vẫn ngủ quên trên cánh hoa hường
Sương kết hơi mù mơn man lá cỏ
Chàng kết tình vui hơi thở em nồng
Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu luống mạ
Say gió chiều nghiêng kể chuyện thanh bình
Mạ đơm lúa đầy trẻ thơ mau lớn
Chàng đơm tình đầy trong ngực em, xinh
Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu mặt trời
Bỏ quên sợi nắng lụa vàng tươi
Mặt trời nổi lửa soi trần thế
Chàng thắp tình soi dáng nhỏ em, lười
Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu hy vọng
Bay nhảy siêng năng từng trái tim người
Hy vọng vuốt ve sau lần thất thế
Chàng vuốt ve tình nóng hổi bàn tay
Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu cánh gió
Chơi giỡn tung tăng hai vạt áo dài
Gió đưa mây về, trời mưa, bong bóng vỡ
Chàng đưa tình về, xót ngọn cỏ may
(Oanh)

Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2021

Thương khúc dâng người


Thi sĩ Nhật Chiêu đã viết nhiều bài thơ, "thương khúc" thật hay giữa Sài Gòn những ngày đầy thương khó khó lường...Mình chọn lưu ở đây vài bài mình yêu thích nhất. Những bài thơ như bước ra từ cõi mơ, nơi nỗi đau cũng đẹp ... như ngôn ngữ của Nhật Chiêu, mà niềm yêu, niềm bi cảm để lại rất thật...

Hai thầy trò mình có một kỷ niệm khó quên ở đường Phan Xích Long hôm 27-5, ngày mình bắt đầu nhìn thấy mây đen dọn một cuộc mưa sầu cho thành phố. Không thơ hóa được kỷ niệm, xin mượn thơ thầy để ghi nhớ về Sài Gòn những ngày "mỗi bước băng lên cuộc sống còn", những ngày chúng ta vẫn đang "còn mơ một sớm mai vàng/ người thương/ bước với người thương xuống đời"...

CON NGƯỜI ĐỊNH NGHĨA MỚI

Bay xuống hè phố vắng
bầy chim sẻ lang thang
một chim non hỏi mẹ
nơi đây sao mà buồn
loài gì đang làm tổ
hay đang trú trong hang

con người
đang ở đấy
môt-loài-mang-khẩu-trang
xưa kia như chim sẻ
đã từng vui bầy đàn
bây giờ họ giấu mặt
giấu mình sau lớp lang
người hùng ngàn gương mặt
đã trở nên điêu tàn

con người
mang tên mới
một - loài - mang - khẩu - trang.

8.8.

RÙNG MÌNH NGHE GIÓ TRẮNG

Bên phố hàng cây đứng ngóng đời
ngày trắng hay là đêm trắng rơi
đôi khi rùng mình nghe gió trắng
những con phố trắng đã tan cười

lá người bay trắng về đâu cội
cây hỏi thầm thôi bụi trắng ơi
lá xanh cây hỡi xin đừng trắng
bên phố
hàng cây
đứng
ngóng đời.

28.8

THƠ GỞI NGƯỜI THƠ TRẺ

Nếu có thể
sống trong thời đại dịch
sao bình thường
không sống vạn lần hơn

ai vừa gởi
một chút niềm hối tiếc
mai gặp người
hôn miết vạn lần hôn

nếu ca múa
với người trong dạ tiệc
sao mỗi ngày
không múa với càn khôn

ai vừa gởi
một lời không hối tiếc
phá rào đi
mà hát vượt vô môn

13.9

THƯƠNG KHÚC DÂNG NGƯỜI

Gió mưa nào
gió mưa nào
cơn đau nằm cuộn cơn đau sóng cuồn
người ơi
đang chết tha phương
người ơi
đang khóc không đường thoát thân
người ơi
chết đến dần dần
chân không thả bước
trời không xoay mùa
chết không gọi
chết không thưa
hồn không siêu độ
thân vừa tro than

còn mơ một sớm mai vàng
người thương
bước với người thương xuống đời
người ơi
thương khúc dâng người.

16.9

NHỮNG CƠN LỐC NGƯỜI

Cơn lốc người cơn lốc người
lao đao người chao đảo người

ai xuôi vạn lý đừng mai mỉa
xuôi phận đời đen chỉ thế thôi

người đi không ai đuổi
người về không ai đợi

quê hương bước tới mây vời vợi
cố quận quay về áo tả tơi

có một bé thơ vừa chết giấc
ai đó gào van trời hỡi trời

thiên vấn ư khi trời thất lạc
bất tri à thì hỏi dân gian

qua đèo mây qua đèo mây
người hay mây mờ mịt

cơn lốc người cơn lốc người
mưa khóc hải vân quan

cuồn cuộn lao mình cơn di tản
nắng mưa dầm mặt rát bước lầm than

người ơi người muôn trùng khốn đốn
người ơi người hồn xác héo hon

cơn lốc người đi trong gió lốc
mỗi bước băng lên cuộc sống còn

10.10

AI MUA NẮNG AI ƠI

Ngày xưa
đã không còn nắng trong nhiều ngày qua
không ai biết bao giờ nắng lại như xưa
người ta nhớ nắng nao lòng nhớ nắng
mùa nhớ kéo dài đớn đau khao khát
nhớ nắng lung linh lấp lánh lướt vàng
trong đám lá lau nhau lam lục lênh lang
nhớ nắng óng a óng ả trong cốc thủy tinh
ai nâng lên nước mùa hạ mới môi thơm
nhớ như chỉ còn biết nhớ thế thôi
đêm thả mình thư thả đêm đời
buông bóng tối vào vô tâm vô sở
mà thỏa lòng không sợ nắng nôi
nắng ơi nắng đi đâu vô ngấn tích
trong tịch mịch người quên nhìn nhau
nhiều thân thể giao tình vô sai biệt
ai biết trộm tình hay đổi trao

rồi một hôm vang tiếng rao vụt nhẹ
nắng đây rồi ai mua nắng ai ơi
và kẻ lạ vào thành
bán những lọ thủy tinh be bé
lập lòe chút chi nửa nhạt nửa ngời
thứ mà y gọi là nắng
ôi nắng tếu nực cười
nhưng chút ánh còi còn hơn không có
nên người ta tranh mua một chút ánh xanh rơi
kẻ lạ mang vào thành chút quà quê lạ
*
đom đóm à
hay một chút ma trơi

25.10

NHẬT CHIÊU

Nguồn: Cafe với Nhật Chiêu

Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Giữ đời cho nhau


Lần đầu gặp mấy chữ đó, không phải trên trang sách hay trang mạng in thơ Du Tử Lê, mà là "gặp" trên môi Tuấn Ngọc, giữa tiếng violin dìu dặt trên những âm giai của Từ Công Phụng...Lặng đi một đỗi, ôi một hẹn ước quen cho mối tình luống những ngậm ngùi, mà "giữ đời cho nhau" nghe thơ và thương quá.

Mối duyên - đời nào ta không muốn để trôi...?

...ơn em tình như mù loà,
như con sâu nhỏ bò qua giấc vùi.
ơn em hồn sớm ngậm ngùi,
kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau.
(Ơn em, Du Tử Lê)

Chép cho người, ghi nhớ những ngày chúng ta trôi giữa mù sương của yêu thương, những ngày để mặc cho cánh buồm lý trí xếp lại, tìm nhau trong biển đêm khó dò...Nói em nghe, những chiếc thuyền đi lạc có điều hướng cho nhau về tới một bình minh?

..........

“But love...it's only an illusion. A story one makes up in one's mind about another person. And one knows all the time it isn't true. Of course one knows; why one's always taking care not to destroy the illusion.” (Virginia Woolf)

Thứ Sáu, 11 tháng 6, 2021

Chỉ còn 2 chữ hư không...





Gặp thi sĩ Nguyễn Đức Sơn lần đầu cách nay 9 năm ngay căn nhà gỗ nhỏ xíu trên Đại Lão sơn, lúc ấy ông còn khỏe, giọng khỏe, sang sảng đọc thơ cho tụi mình nghe, dạo chơi đồi thông Phương Bối và tiễn tụi mình đến tận chân đồi…Lần cuối thăm ông năm 2018, ông nằm bệnh, đã không thể có lại được hình ảnh "đám trẻ" ngồi quây quần nghe thơ ông giữa rừng thông.

Từ sau năm 2011, thi thoảng ông vẫn gọi điện cho mình để hỏi thăm báo Tuổi Trẻ - tờ báo ông vẫn đọc đều những ngày mắt còn sáng. Mấy mươi năm dài náu ở “rừng im” nhưng ông không hề lãng quên thế cuộc, vẫn luận bàn thời sự trong nước và quốc tế - dù giọng ông sau này nhiều lúc đứt quãng…

Ông thi thoảng cũng nhắn cả những bài thơ mới làm qua điện thoại…Nhiều lúc đang bận việc, mình vẫn gác lại để nghe ông, nghe lửa cháy và sự tịch mịch của một “rừng thơ” mang tên Nguyễn Đức Sơn.

Nghe tin ông mất, nhớ những ngày ấy, nghĩ thật biết ơn đời nếu ai đó còn có thể nhấc máy gọi cho nhau…

Mình thích nhất vẫn là cảm thức về vô thường trong thơ Nguyễn Đức Sơn. Thơ ông trình hiện kiếp nhân sinh là một cuộc “cắm đầu lao thẳng tới hư vô" "trước khi biến tan vào trong bụi cát". Phù du là thế, đi miệt mài trong cõi vô minh rồi về với hố thẳm, nhưng thế lại càng “bắt đầu thở là bắt đầu hạnh phúc”....

Mình cũng thích hình ảnh thiên nhiên tràn đầy trong thơ ông. Chữ của ông chỉ có thể là chữ của một người thật sự sống - với và hàm ơn thiên nhiên trong từng hơi thở phập phồng. Mình vẫn hay nhớ:

"Tôi về lắng cả buổi chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh"; hay:

"Đồi cao ổi sót rụng một trái
Dòi ăn một bên ta một bên".

Nguyễn Đức Sơn từng có bút hiệu là Sao Trên Rừng. Thơ ông đầy hình ảnh các vì sao sáng - chiếu - rụng - rơi - trôi giữa "rừng phương Đông". Những đóa sao làm thi sĩ có thể hạnh phúc đến bật khóc, thắp lên bao mộng ước của đời sống hay làm rơi rụng mọi nỗi niềm, để chỉ còn hai chữ "hư không" đọng lại sau mỗi bài thơ.

Những ngày nằm bệnh, không biết ông còn nhớ nghĩ những câu thơ xưa:

"Mai kia tắt lửa mặt trời
Chuyện linh hồn với luân hồi có không"…; 

"Cưu mang oan nghiệp một trời
Anh nghe ngày rụng tiếng đời bay xa
Mai kia bóng thẳm huyệt tà
Ru anh em sẽ thật thà hơn em...";

"Còn một mình hỏi một mình
Có chăng hồn với dáng hình là hai
Từng trưa nằm nghỉ đất dài
Phiêu phiêu nhẹ cái hình hài bay lên… "

Nhẹ một hình hài giữa trời thinh không ông Sơn nhé. Hẹn ông, mai “đám trẻ” sẽ về nghe lại thơ ông giữa hư không…

11.6.2020

P.S: Biên trong ngày này năm ngoái, lưu ở đây nhân tròn 1 năm ông Sơn Núi rời cõi tạm. Mình quên chưa nói: Nguyễn Đức Sơn là một trong những nghệ sĩ có tinh thần công dân mạnh mẽ nhất mà mình biết. 

Hôm nay nhớ chuyến xe ấm áp đưa tụi mình về Phương Bối viếng ông một ngày tháng sáu.

Nay cũng nhờ một ghi chép ở blog này năm 2014 mà nhớ lời ông từng nói với mình: "Này ranh con, thế giới này lạ lùng lắm. Lạ lùng lắm!. Sau này Sơn núi có đặt một chân xuống huyệt rồi thì chân còn lại cũng phải trồi lên". Mong/ tin là ông đã luân hồi trở lại kiếp người để mà lại thương say cái thế giới lạ lùng này...

Thứ Năm, 6 tháng 5, 2021

Biệt ca




Mỗi nắng xuống là một lần chia biệt
Mỗi mai lên lại một cuộc bắt đầu
Đời luân chuyển, ta làm gì khác được
Chẳng thể nào dừng mãi để chờ nhau.

Núi xưa đã bạc đầu năm tháng đợi
Lòng sông kia cũng héo cạn mong chờ
Người ngỡ sẽ có đường trong tử địa
Bỗng một ngày gục chết dưới dòng mưa.

Vòng tay bé thôi xiết ghì hy vọng
Quả tim run không đựng nổi bão bùng
Thôi buông hết nghe gió luồn tay rỗng
Một bước lùi,
Là trời biển bao dung.

Người sẽ lại trở về năm tháng cũ
Sống yên vui, trang đời mới không ngờ
Bước quả cảm như chưa từng vỡ vụn
Mắt dịu dàng khi nhớ chuyện hôm xưa.

Mỗi nắng xuống là một lần chia biệt
Mỗi mai lên lại một cuộc bắt đầu
Người sẽ bước một mình qua bóng tối
Dưới trời này,
Sao sáng cũng vì nhau.

Nguyễn Thiên Ngân

Thứ Hai, 26 tháng 4, 2021

Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu

Một nén hương nhỏ "thắp tạ" Người thơ, ghi từ cuộc trò chuyện Tô Thùy Yên - Để mà thương nhớ thơ:

Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu: Nhà thơ Tô Thùy Yên là bậc thầy của tiếng Việt

Lúc bài thơ Ta về vừa được đọc dứt, mắt mình rơm rớm, quay qua ba cô bạn ngồi cạnh thì cả ba mắt hoe đỏ, cô bên phải rớm lệ, cô bên trái gỡ kính lau hàng nước mắt đã lăn dài...

Mình sẽ con nhớ lâu buổi cafe thơ này vì hình ảnh đó.

"Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu/ Ta nghe như máu ân tình chảy/ Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau...".

Các “cô ấy” đã đọc Ta về nhiều lần, rơi nước mắt không chỉ vì nỗi đẹp trong thơ mà cả vì nỗi vui thơ được đọc, giữa những ngày tháng tư, trong một buổi trò chuyện tưởng là khó tổ chức...

Ghi chép của mình trên Tuổi Trẻ Online là bài viết đầu tiên trên Tuổi Trẻ "về Tô Thùy Yên" sau ngày thống nhất đất nước, với mình, nó sẽ là một dấu mốc của ...hòa giải về văn hóa, để rộng đường hơn cho những bài viết về sau về Tô Thùy Yên.

Mong những di sản văn hóa giá trị được phổ biến để nhiều người cùng tiếp cận, nếu không thì "sự phân ly về văn hóa" vẫn chỉ tiếp tục làm thiệt thòi cho chính chúng ta. Đóng góp chút sức mọn vào câu chuyện này, quả thật là một "nỗi mừng".

Mong lắm một ngày tập thơ của nhà thơ Ta về “về” in ở xứ sở mình. Sẽ mừng mừng tủi tủi biết bao, để cùng “thắp tạ”...một Việt Nam (trong niềm hi vọng) hòa hợp. Những cành nhánh dù có đứt lìa, ly tán thì cũng đã được sinh ra từ một cội rễ chung. Sao không cảm thông được với nhau, một khi nhìn ra đâu cũng là gương mặt anh em...?

------

P.S: Những câu trong bài Đãng tử của Tô Thùy Yên mà mình rất thích:

...Bạn có nghe, này bạn có nghe
Vũ trụ miên man chuyển động đều.
Chim đã bay quanh từ vạn cổ,
Gió thật xưa, mây thật già nua.
Nên với một đời, bao biến đổi
Mà trong vô hạn có chi đâu.
...
Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm
Lược sử ta trong bí lục nào,
Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn,
Thiên thu loé tắt vệt phù du…
Thuận tay, ta ngắt một cành sậy
Làm cây sáo thổi cạn hồn sầu
Bay tản khắp vô cùng trống trải,
Âm thừa tưởng lạc đến muôn sau…

Thứ Tư, 21 tháng 4, 2021

Hoa cúc xanh hay Gió đọng trong vườn



Dịp sinh nhật "anh" (17-4) năm nay, Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Hội An...lại vang vang thơ "anh" trong những không gian ấm những đôi môi ấm...Hôm qua mới có chút thời gian đọc những cảm nhận của mọi người về Se sẽ chứ..., nhớ "anh", lưu lại ở đây bài đã viết vào tháng tư 4 năm trước:

Tối nay kịch anh viết diễn ở Sài Gòn, giữa "mùa của nắng, của quả chín, của trời biếc và của những mối tình đầu" (*). Khán phòng chính lẫn tầng lầu của Nhà hát Quân Đội không còn 1 chỗ trống, khán giả đến sau phải ngồi bệt ở các bậc thang và đứng ken dày phía sau hàng ghế cuối. Đông như mọi khi kịch anh viết diễn cho khán giả thủ đô. Anh ở "nơi nào đó" có xúc động không, Vũ ơi?

Là vở "Hoa cúc xanh trên đầm lầy" anh ạ. Rất nhiều thoại khiến khán giả vỗ tay vang rạp. Và có lời thoại làm khán phòng lặng phắc.

Lúc Hoàng "của anh" gọi to "Vân ơi!", "Liên ơi!", hình như khán giả cũng đang gọi vang như vậy trong lòng. Gọi một sự trở về với những thiện lành nguyên sơ của tuổi thơ chưa bị vẩn đục bởi áo cơm nhỏ nhặt đời thường, bởi lợi danh chìm nổi. Xem kịch anh, lại thương anh quá, Lưu Quang Vũ ơi! Anh tin không, một lần nữa, anh khiến cho khán giả - dù 3 phần tốt 7 phần xấu hay 7 phần tốt 3 phần xấu - đều thảng thốt "đi tìm", nhận chân lại phần tốt đẹp của mình, giữ chặt lại chúng, như giữ Chân Hạnh Phúc.

Bởi như anh nói đó - vừa như tuyên ngôn vừa như đối thoại với chút hoài nghi của chính mình - giữa thời đại từng biếc xanh lý tưởng mà nhiều biến động, nhiều xoay trở của lòng người:

Những điều tốt đẹp dứt khoát phải hiện hữu, chỉ là ta muốn giữ lại hay không. (**)

Có niềm tin nào tươi trong hơn thế? Có thao thức nào đẹp như gió đọng trong vườn thế không?

Cảm ơn anh, vì tất cả những gì anh đã gửi vào ngôn ngữ, để thi thoảng, 1 lời thoại, 1 câu thơ thôi, mà nâng dậy tình yêu đời sống.

Xem kịch anh về, bỗng thèm đọc thơ anh.

Vườn em là nơi đọng gió trời xa/ Hoa tím chim kêu bàng thưa lá nắng...

Muốn hỏi những khu vườn của anh, có người đàn ông nào trung thực, tài hoa và nhiều say đắm như thế nữa không?...

Tôi biết, có những bạn bè thi thoảng lại mở tập thơ của anh ra, để nhớ thương những bông cúc xanh, để quên đi những vũng lầy, để thấy ngày đẹp lên, mùa đi qua rung động, "ấm áp và nhân hậu", như mùa hè tuổi trẻ của anh...

Khuya rồi, mà 1 vở kịch cho một ngày - hè - đẹp đã đủ rồi anh nhỉ? Hẹn ngày mai tôi sẽ đọc thơ anh để tiễn một ngày dài. Nhớ anh, còn đọc thơ cả đời...

-------------

(*) Lưu Quang Vũ nhắc về mùa hè trong nhật ký tuổi 15.
(**): Câu thoại cuối kết lại vở kịch Hoa cúc xanh trên đầm lầy, ghi theo trí nhớ.
Ảnh: từ Di cảo Lưu Quang Vũ (NXB Trẻ)

P.S: Những câu thơ đọc cho tháng tư năm nay:...Em là rễ nối liền anh với đất/ Lại là chồi mở búp đón sương mai/ [...]/ Em đã là tất cả:/ Sao của hoàng hôn/ Mầm thơm của mạ/ Niềm tin cần cho những năm gian khổ/ Và tình yêu nuôi nấng những con người. (Em (I))

Chủ Nhật, 18 tháng 4, 2021

Ghi ở Xuyên Mộc




Mình rất thích bức ảnh này vì có cả ba tâm hồn phương Đông huyền nhiệm, ba tên tuổi gắn liền với nền thi ca Phật giáo cùng có mặt trong bức ảnh: “Chữ” của nhà thơ Vũ Hoàng Chương. Thư pháp của nhà thơ Nhất Hạnh. Và người đang thưởng lãm chính là nhà thơ Trụ Vũ.

Bức ảnh mình chụp ở triển lãm thư pháp Hương thơm quê mẹ của Thầy Nhất Hạnh hôm triển lãm diễn ra ở nhà sách Hải An, Sài Gòn (triển lãm đang tiếp tục diễn ra tại ĐH Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội).

Đêm nay có cơ duyên dự đêm thơ nhạc Những bước trầm hương mừng thọ nhà thơ Trụ Vũ do anh em văn nghệ sĩ Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu) tổ chức - một đêm thật “đôn hậu” (chữ bác Trụ Vũ nói với mình) và ấm áp tình văn nghệ sĩ khiến mình không khỏi cảm động, bỗng dưng muốn chia sẻ bức ảnh :).

Ngoài suối nguồn thi ca tìm về với nhau đêm nay, sẽ còn nhớ, hình ảnh mảnh trăng lưỡi liềm nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc chỉ mình ngắm và những câu lục bát tuyệt hay trong bài Nửa khuya của Trụ Vũ mà nhà thơ Hạnh Phương đọc cho chú Ngọc và mình nghe:

[...]
Ôi từ độ đá thành tên,
Ôi từ độ đất nên hình cỏ hoa.
Giọt cành dương, hạt mưa sa,
Pháp âm dậy giữa phong ba ngọt ngào.
Từng biển thấp, từng non cao,
Ý chi không Phật, lời nào không Kinh.

17.4.2021

P.S: Cập nhật bản tin mình viết cho Tuổi Trẻ ngày 20-4:

Cuối tuần vừa qua, đêm thơ nhạc mang tên “Những bước trầm hương” mừng thọ nhà thơ Trụ Vũ (91 tuổi) đã diễn ra tại xã Phước Tân (huyện Xuyên Mộc, Bà Rịa - Vũng Tàu), hội tụ hơn 50 người hâm mộ, văn nghệ sĩ yêu thơ Trụ Vũ từ TP.HCM, Nha Trang, Bình Phước, Đồng Nai, Hà Nội... về tham dự. Đêm thơ do anh em văn nghệ sĩ Xuyên Mộc yêu mến thơ và thư pháp của Trụ Vũ tổ chức để tri ân người thầy của mình.

Có mặt tại đêm thơ, bác sĩ - nhà văn Đỗ Hồng Ngọc, bác sĩ Võ Văn Thành, PGS.TS Đoàn Văn Điện, nhà thơ Hạnh Phương... cùng nhiều văn nghệ sĩ đã cùng chia sẻ mối giao tình đáng nhớ với nhà thơ - nhà thư pháp Trụ Vũ, ghi nhận tài năng thi ca độc đáo của ông trong những bước “hành hương” cùng thơ suốt hơn 60 năm. Đó là một hành trình thơ chuyên chở tinh hoa của triết học Phật giáo - nguồn thi cảm lớn của ông cùng tình yêu vô lượng với đời sống, với đất mẹ và vũ trụ này. 

“Mỗi bài thơ nhắc người ta trở về với hơi thở, với chính mình” - bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nói. Người bạn thơ gắn bó 50 năm, nhà thơ Hạnh Phương, khẳng định: thơ Trụ Vũ đã tồn tại trong lòng quần chúng hơn nửa thế kỷ, nhẹ nhàng và thanh thản; Trụ Vũ là một tên tuổi không thể không nhắc đến trong lịch sử văn học Phật giáo Việt Nam.

Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2021

Không có gì quý hơn tình bạn

Đã lâu lắm mới nghe tiếng chim bồ chao gọi
Nhưng nếu cõi lòng anh chưa tự sửa soạn thành
Rừng
hỏi lấy chi làm chốn đậu của
Rưng rưng

Buổi trưa ăn cơm với bác T. V., đọc cho bác nghe mấy câu này, hỏi bác có còn nhớ những câu thơ này của bác không? Thi sĩ đã qua tuổi 90 gật gù: "Nghe thì biết là thơ của mình".

Lưu lại ở đây vài lời của bác trưa nay, phòng trí nhớ suy tàn: Thứ bảy tuần sau con lại đến nhé, cứ thứ bảy là tới đây ăn cơm trưa với bác. Hãy kéo dài 100 thứ bảy như thế. Bởi không có gì quý hơn tình bạn. Mọi thứ rồi sẽ mất đi, riêng tình bạn ở lại.

Một lời khác bác nói, thật chậm và thật rõ trong buối cơm chay của hai bác cháu: Mỗi - sinh  - vật - đều - cần - được - sống.

Và một thứ bảy trước, bác dặn: Con đến đừng mang quà gì cả. Tự LT đã là một món quà, những món quà khác sẽ thành vô nghĩa. Con biết đó, có những người mình coi như ruột rà mà không biết tại sao.

Cảm ơn thật nhiều thịnh tình của bác dành cho con bé vụng dại này. Cảm ơn một cõi thơ tràn đầy an lạc, tỉnh giác của bác - mỗi bài thơ như tiếng chuông nhắc người ta tìm về với Tự tánh, với Chân Tâm, mỗi bài thơ như những - bước - hành - hương đến Đạo giải thoát. 

Có cơ duyên gắn bó với bác mà con chưa viết được "cái gì ra hồn" về thơ T.V. Cho con giữ lại một lời hẹn vậy. 

20.3.2021

Bi kịch nào cho nhà văn?


10 giờ 15 phút sáng ngày 14-4 năm 1930. Tiếng súng nổ. Người ta nhìn thấy Vladimir Maiakovski- nhà thơ Xô Viết nổi tiếng nằm chết trong căn phòng tập thể ở đường Lubianka, vết máu trên áo sơ mi. Các báo đồng loạt đưa tin cáo phó, viết bài tưởng nhớ, kết luận sự kiện bi thảm ấy là một vụ tự sát. 

Nhưng gần ¾ thập kỷ đã trôi qua, câu hỏi về cái chết của Maiakovski vẫn còn đó. Có phải là Maiakovski tự sát hay không? Tại sao một người “khổng lồ” thế, tài năng thế, một nhà thơ “dự cảm được sự bay bổng của mình” lại tự nguyện chấm dứt cuộc sống? Các cuộc tranh luận nổ ra giữa các nhà điều tra. Các nhà nghiên cứu tiểu sử và sáng tác của nhà thơ vất vả với những dữ kiện không đầy đủ. ..Và những bạn đọc yêu mến nhà thơ Maiakovski đến nay vẫn chưa có được câu trả lời chính thức.

Năm 1998, tác giả Valentin Skoriatin, với khối tư liệu đồ sộ tìm được từ các hồ sơ tuyệt mật, sau hàng loạt các bài báo về Maiakovski luôn được bạn đọc đón đợi (đăng trên tạp chí Zhurnalist từ 1989-1994), đã cho ra đời quyển sách đầy tính tư liệu quý báu và hấp dẫn: Bí ẩn về cái chết của Vladimir Maiakovski.

Nhà xuất bản Trẻ với vai trò thử nghiệm dịch sách điều tra lịch sử của Nga và dịch giả Lê Khánh Trường với tác phẩm lựa chọn này đã cung cấp cho độc giả VN một kho thông tin quý giá xoay xung quanh quãng đời cuối cùng của Maiakovski. 

Quyển sách nêu ra giả thuyết mới về cái chết của V. Maiakovski- giả thuyết về sự bức tử đối với nhà thơ. Những bức ảnh tư liệu lưu trữ hiếm có, những chi tiết quan trọng, những dẫn chứng thuyết phục cùng những lý lẽ logic đã vén một góc bức màn bí mật cái chết của Maiakovski.

Buổi sáng định mệnh ngày 14-4 năm1930 ấy, Maiakovski đã tự sát hay bị bức tử? Hậu thế đã không nguôi được với niềm tiếc thương lẫn tò mò. Cũng như với bao nhiêu cách giã từ sự sống như thế của những nhà văn khác. Bi kịch đó do đâu? Do nhà văn không tìm được chính mình, không chấp nhận được những phi lý của chính mình hay của thời đại?

Rất nhiều người tin rằng đằng sau cái chết này là một lý do chính trị. Maiakovski, với những vở kịch châm biếm và thi ca chân chính của mình, đã “tấn công hệ thống mệnh lệnh hành chính đang nảy sinh ở nước Nga, tấn công bộ máy quan liêu đại diện cho hệ thống đó” và “chỉ muốn người đọc hãy trở về thực tại khắc nghiệt của thời đại”:

Chúng ta quay ngoặt bước chạy của lịch sử.
Hãy tiễn đưa cái cũ đi mãi mãi.
Người cộng sản và con người.
Không thể nào khát máu.


Nhà thơ đã không chịu câm nín như ông muốn, không cúi đầu như những nhà văn chiều thời đại mà đã “nói thật to”:

Lục lọi cái thời hóa đá hôm nay,
nghiền ngẫm bóng tối thời nay,
bộ tuyên truyền ra rả bên tôi,
tôi đấu dịu,
ngậm họng.

Kết cục của sự “đấu dịu” ấy là bị buộc phải chọn lựa cái chết vì đã sống thật? Tiếng súng đã vang lên nhắm ngay vào trái tim đòi khước từ cái bánh vẽ dân chủ và tìm kiếm sự tự do đích thực. 

Nếu cái chết của Maiakovski không phải đơn thuần là một cách đào thoát khỏi những tai họa riêng tư thì bi kịch của Maiakovski cũng chính là bi kịch của những văn nghệ sĩ không thể nói to sự thật, không hét to lên được cho ai nấy cùng nghe thấy toàn bộ sự thật về thời đại; yêu nước mà không thể chữa lành những ung nhọt nhìn thấy được của đất nước; không thể nịnh bợ chính trị khi không có niềm tin vào bộ máy cai trị. Và cuối cùng là sự bất lực phải chui vào vòng kim cô của chính trị choàng lên đời sống văn nghệ.

Nhưng cuối cùng, Maiakovski có bị bức tử hay không, điều đó đã thuộc về quá khứ. Điều quan trọng hiện tại là sự bất tử của tác phẩm mà người nghệ sĩ sáng tạo nên. Những tác phẩm tìm được sự bất tử khi nó không bắn vào trái tim trong sáng của người sáng tạo, không bắn vào cái đầu không chịu tuân thủ những quy định kìm nén khả năng sáng tạo chân chính.

Còn lại đây, những câu thơ được sản sinh từ “trái tim được giải phóng”:

Tôi muốn đất nước hiểu tôi
Còn không được hiểu-
thì sao?!
Trên đất nước thân yêu
tôi lại đi qua bên cạnh
như giọt mưa
rơi vát.
Còn chuyện khác nữa:
tôi biết sức mạnh từ ngữ,
tôi biết hồi chuông báo động của từ ngữ.
Chúng không phải
thứ ca ngợi sự giả dối.
Những từ ngữ
làm vỡ quan tài
Những từ ngữ
bò lổm ngổm
bằng cái chân gỗ của mình.


(Trích Trường ca Nói thật to)

Cái chết của Maiakovski qua cuốn sách này bỗng gợi lại những câu thơ tưởng nhớ Hemingway của nhà thơ Xô Viết Evgheni Evtushenko:


Tự tử, đối với đời nghệ sĩ
Là giữ mình không trong sạch vẹn toàn,
Đã chịu bán tài năng
Thì đắt, rẻ mặc lòng
Đều từ đó hóa thành vô sỉ
Tự tử, đối với đời nghệ sĩ
Đâu phải viên đạn chì, hay một nút dây thừng,
Bao kẻ sống phây phây, mặt mũi đỏ bừng
Nhai thịt gà, uống rượu vang ừng ực,
Nhưng khi ngồi vào bàn viết,
Thì té ra, họ tự tử lâu rồi!

Anh là người trung thực nhất đời
Chỉ bắn nỗi đau kia

Đâu bắn tấm lòng mình?

(Bằng Việt chuyển ngữ).

Là nhà văn mà không nói được tiếng nói của mình, tiếng nói trung thực của Con Người thì mới là bi kịch thật sự của “cái chết” . Sống và viết đúng với lương tâm thời đại, ngẫm ra cũng khó vậy sao? Còn Maiakovski, như Hemingway, ông đã không “bắn tấm lòng mình”. Ông và sự trung thực của ông sẽ vẫn còn được nhớ mãi trên nước Nga thân yêu. Không có ngụy thuyết nào phủ nhận được điều đó.

P.S: Một bài viết cũ thời sinh viên, lưu lại ở đây cho nhãn Sách của bạn nâu.

Thứ Sáu, 19 tháng 3, 2021

Tô Thùy Yên (1938-2019) - Nhà thơ Việt Nam


Nhà thơ Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, từ trần tại Houston (Hoa Kỳ) lúc 21g15 ngày 21-5-2019, thọ 81 tuổi. Vào tuổi ấy, và sau bao nhiêu gian truân, ông ra đi vẫn gây ra nhiều tiếc nuối trong giới độc giả trong và ngoài nước. Cái tang chung cho giới văn học đặt ra một câu hỏi khẩn thiết: tác phẩm Tô Thùy Yên đứng ở đâu trong dòng văn học Việt Nam hôm nay?

Tựa đề bài này khẳng định: Tô Thùy Yên là nhà thơ Việt Nam. Không phải là nhà thơ hải ngoại hay của Miền Nam cũ. Lý do đơn giản: ông là người Việt Nam, viết văn, làm thơ bằng tiếng Việt Nam. Huống hồ đời ông gắn bó với lịch sử đất nước trong mỗi chặng đường, thơ ông đầy ắp tình tự dân tộc, thắm thiết phong cảnh quê hương, ngôn ngữ Việt Nam phong phú, đa dạng, vừa uyên bác vừa sâu đậm lời ăn tiếng nói dân gian, tục ngữ, ca dao. Thơ ông đặc sắc, từ nội dung nhân đạo, tư tưởng cao sâu đến lời thơ tài hoa, hào sảng, giàu hình ảnh lạ trong tiết điệu thân quen. Nghệ thuật vi diệu của ông làm vinh dự cho tiếng Việt và văn hóa Việt. Tô Thùy Yên là nhà thơ Việt Nam bên cạnh Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà.

Tôi đã ngần ngại nhiều ngày trước khi đưa ra nhận định như trên, e rằng mình chủ quan, quá lời, cho đến khi đọc trên mạng ngày 28-5, bài của nhà thơ Thanh Thảo, không được đăng trên các báo giấy trong nước, có đoạn: “Tô Thùy Yên là một nhà thơ lớn (…) khi một nhà thơ Việt được công nhận bởi tài năng và nhân cách của mình, thì dù họ sống ở xa tổ quốc, thơ họ vẫn thuộc về đất nước, về dân tộc Việt Nam. Đó là thơ của một nhà thơ Việt thuần chất, trong đau khổ vãn giữ được phẩm chất người của mình, vẫn yêu thương mà không oán hận, dù số phận mình hết sức trớ trêu”. 

Thanh Thảo, sau 20 năm đọc thơ Tô Thùy Yên đã nắm bắt được hai yếu tố chính: chất dân tộc và chất người, làm nên nhân cách nhà thơ. Tôi đặt tên cho bài viết: Tô Thùy Yên nhà thơ Việt Nam, tưởng là đã chắc nịch, trong khi Thanh Thảo dùng chữ “nhà thơ Việt” ngắn gọn hơn, nhưng sắc bén, sâu xa hơn cái quốc hiệu tôi đưa ra. Thanh Thảo, cùng với Tô Thùy Yên là nhà thơ, họ sử dụng ngôn ngữ theo trực cảm, từ đáy vực tâm linh của lời nói. 

Lại nhớ đến Trần Đĩnh, tác giả Đèn Cù khi anh nhận xét “Tô Thùy Yên là nhà địa chất học dầu tiên nhặt lên những quặng chữ chưa ai từng phát hiện để dặt chúng bên nhau mà phát xạ” (Văn Việt 28-5-2019). Tôi thấy an tâm vì mình vinh danh thơ Tô Thùy Yên, nhất là vào giờ vĩnh biệt nhà thơ, không phải là chủ quan quá đáng.

Về tư tưởng và nghệ thuật Tô Thùy Yên, tôi đã từng sơ lược trình bày trong bài Ngựa phi đường xa, đăng trên báo Khởi Hành, California, số 20, tháng 12-1998. Từ bấy đến nay, non hai mươi năm, tình hình văn nghệ, báo chí đã không khá khẩm hơn, thậm chí còn u ám hơn. Văn thơ, đáng lẽ phải làm cho con người gần nhau, lại gây thêm tị hiềm, chia rẽ, thậm chí thù hận. Riêng Tô Thùy Yên thì có địa vị riêng, thơ ông đứng bên ngoài cõi ta bà đó và gây được sự đồng thuận giữa độc giả trong và ngoài nước, nhờ nội dung nhân ái và nghệ thuật vi diệu; và cũng nhờ kỹ thuật thông tin mạng hiện đại. Nhiều người truy cập được toàn bộ thơ văn Tô Thùy Yên, trong và ngoài nước, với ít nhiều thiện tâm, thiện chí, dù chính kiến, quá khứ có khác nhau, họ cũng thấy gần gũi qua những câu thơ:

Ta về như lá rơi về cội,
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này


Bài Ta Về làm 1985 khi tác giả vừa ra khỏi trại tù cải tạo, tuy có nhắc lại những lao khổ qua “mười năm chết dấp”; nhưng không thù hận. Ông xem những điêu linh, chiến tranh, lao lý, đổi đời như là hiện tượng tự nhiên, một cuộc biển dâu như người xưa vẫn quan niệm, mà Ôn Như Hầu hay Nguyễn Du đã từng nhắc lại đâu đó. Để bôi xóa quá khứ, để nuôi dưỡng sự sống, tác giả rót chén rượu giải oan, giống ai xưa đã lập đàn giải oan trên sông Tiền Đường, giải trừ oan nghiệt cho chúng sinh, cho một bếp lửa nhân quần ầm tối nay. Bếp lửa đầu tiên của loài người là của bộ lạc, rồi đến bết lửa gia đình, không có kích cỡ nhân quần như nơi Tô Thùy Yên. Vì tâm hồn ông như vậy. Tầm nhìn (sinh thời ông ưa dùng chữ vision) như vậy thấy được thế giới vui từ mỗi lẻ loi.

Thơ Tô Thùy Yên là chuyện Con Người, chuyên một thân phận lẻ loi trong một nhân quần hạnh phúc. Chất thơ tinh luyện trong trước tác Tô Thùy Yên là nhân phẩm con người, từ đó ông thẩm quyền dõng dạc: “thơ còn con người còn” trong một bài nói tại Seattle ngày 26-7-1997; ông giải thích thêm, phân biệt “văn nghệ giải trí, giải muộn khác với văn nghệ ở cấp độ cao nhất là văn nghệ giải oan, giải thoát”. Dù sao thơ cũng cần đến những ẩn dụ hào hoa, chứ kỳ thật để giải oan cho cuộc biển dâu này, Tô quân không cần rưới chút rượu hồng nào cả. Thơ ông là đủ để hóa giải.

Tấm lòng cao quý như vậy, trong một tác phẩm lớn lao như vậy, mà cho đến nay độc giả trong nước không mấy người biết đến vì nhà cầm quyền không cho phép in ấn, thậm chí không cho chép nhắc tới. Dù chỉ đăng tin buồn. Người cộng sản không ưa Tô Thùy Yên thì chuyện dễ hiểu, nhưng khắc nghiệt đến mực ấy thì quả là bất thường, gây thiệt thòi cho quần chúng độc giả; nhất là giới trẻ không tiếp cận được với một nguồn thơ giàu có của đất nước họ. Mà giới chống cộng trong hay ngoài nước, cũng chưa chắc gì đã ưa lối thơ này, mà nhiều người chê là “thiếu lửa”, ví dụ bài Ta Về nổi tiếng. Họ đòi hỏi ở một nạn nhân cộng sản tính chiến đấu cao hơn, và ngờ vực tác giả còn giữ nhiều liên hệ với giới văn nghệ quốc nội và đã đôi ba lần về thăm đất nước. Nghe nói tập thơ cuối cùng mới in gần đây tại Mỹ không bán, tác giả xuất bản để tặng bạn bè.

Cuối cùng, thơ Tô Thùy Yên không dễ đọc. Độc giả trích dẫn nhiều, nhưng chỉ trích những câu, những đoạn vừa ý. Nói rằng tác giả dùng nhiều lời ăn tiếng nói dân gian, nhiều tục ngữ ca dao, nhưng không phải là người đọc nào cũng nắm bắt. Ngay hai câu đầu của Ta Về được truyền tụng nhiều nhất:

Ta về – một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai.

Muốn hiểu cặn kẽ thì phải biết câu ca dao, có lẽ xuất phát từ quan họ:

Người về ta chẳng cho về
Ta níu áo lại ta đề câu thơ…


Thậm chí, cuối tập Thắp Tạ (2004) tác gỉa còn thêm phần phụ chú để giải thích …thơ mình.
Bài thơ làm 1999 có câu thật hay:

Em về giồng dưới qua bưng gió
Dạ bời bời nỗi sậy niềm mây

Câu thơ tự nó đã hay, không cần giải thích. Nhưng tác giả đã tiết lộ xuất xứ từ ca dao Nam bộ:

Em về giồng Dứa qua truông
Gió day bông sậy, bỏ buồn cho anh.

Tô Thùy Yên là nhà thơ uyên bác. Ông thông thạo thơ cổ điển Trung Quốc, có lần, trong trại học tập đã chép tặng bạn một bài thơ dài của Đỗ Phủ bằng chữ Hán. Ông đọc hầu hết thi ca Pháp hiện đại và đặc biệt thích Saint John Perse, một tác gia khó đọc. Ngoài ra ông tinh tường triết học Tây phương, Do đó, câu thơ ông trầm tích nhiều ý tưởng hay ẩn dụ phức tạp, dễ khiến người đọc lạc lõng.

Tô Thùy Yên lại là người cầu toàn, trau chuốt câu thơ “Tôi giựt giành đổ máu với tôi/từng chữ một”, do đó câu thơ có lúc hồn nhiên, có lúc cầu kỳ. Thơ cần cảm hứng, nhưng Tô Thùy Yên khổ luyện thi hứng của mình, thành những bài thơ dài; (nhờ ngẫu hứng mà làm được vài ba câu thơ hay thì không khó, nhiều người làm được). Thơ, cũng như nhiều bộ môn nghệ thuật khác, đòi hỏi những công trình dài hơi, khả năng lao động trí tuệ bền bỉ, rung cảm sâu lắng. Tô Thùy Yên muốn làm thi sĩ thực sự, chứ không chỉ là một tao nhân mặc khách, “ngứa cổ hát chơi”. Và cuối cùng, ông đã là một nhà thơ đích thực, ở tầm cỡ thế giới.

Ngày nay, thơ ông phổ biến nhiều nhờ qua mạng Internet, nhưng đọc thơ trên mạng thì có cái gì đó phù du.

Tóm lại có những lý do khách quan, khiến tác phẩm Tô Thùy Yên khó đến với quảng đại quần chúng. Mà nay còn có chuyện cấm đoán nữa, thì càng thêm khó khăn, tai hại.

* * *

Giá trị thơ Tô Thùy Yên, về mặt tư tưởng, tình cảm, nghệ thuật, tôi đã trình bày nhiều ở phần đầu, và viện dẫn chứng từ của nhà thơ Thanh Thảo, nhà văn Trần Đĩnh, những tác gia nghiêm túc mà tên tuổi đủ bảo đảm cho lời nói, cất lên từ trong nước. Quý ở chỗ đó.

Phần sau là đặt tác phẩm vào thời sự, với những nghịch cảnh đáng tiếc. Phong trào Thơ Mới 1932-1945 nở rộ nhanh chóng và ảnh hưởng lâu dài, là nhờ sách báo và nhà trường thời đó. Ngày nay xã hội Việt Nam không còn được hai ưu thế đó. Ngay việc bình luận, nghiên cứu cũng bị phân tán, ngăn chặn, xuyên tạc.

Nhân một đám tang, chúng tôi muốn nêu lên vấn nạn chung, cho tác phẩm Tô Thùy Yên, mà cũng cho trước tác nhiều tác gia khác.

Cho hay khi con người sống có ích thì chết cũng có ích.

Và chúng tôi tin vào lời Tô Thùy Yên, ngày ông còn cả tiếng cùng nhân loại:
Thơ còn con người còn.

ĐẶNG TIẾN

P.S: Bài tưởng niệm thi sĩ Tô Thùy Yên nhà phê bình Đặng Tiến viết năm 2019, khi Tô Thùy Yên qua đời, nhưng nay mình mới đọc được, lưu lại ở đây.
"Kết" ý này của thi sĩ Tô Thuỳ Yên mà nhà phê bình Đặng Tiến dẫn lại:"văn nghệ ở cấp độ cao nhất là văn nghệ giải oan, giải thoát”

Bài về thơ Tô Thùy Yên - "kho báu của thơ Việt" của nhà thơ Ý Nhi: https://www.dutule.com/a9247/y-nhi-to-thuy-yen-thuc-cho-xong-bai-tho:

"Các nhà phê bình văn học danh tiếng như Đặng Tiến, Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc... đều đã thử bút với thơ Tô Thùy Yên. Và, dường như chưa ai trong số họ cho rằng họ đã nói lời sau cùng về ông. Chắc chắn, những nhà phê bình tiếp sau họ, những độc giả của tương lai, sẽ đọc Tô Thùy Yên với một định chuẩn thẩm mỹ mới, bởi Thơ Tô Thùy Yên là kho báu của thơ Việt, bởi Tô Thùy Yên là “một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” (Du Tử Lê).
Chính xác hơn, Tô Thùy Yên là nhà thơ lớn của nền thơ Việt Nam hiện đại".

Thứ Ba, 16 tháng 3, 2021

Bước chân người lính


Anh nghe nghìn giọt mồ hôi chạy trên lưng
trên mắt trên môi
trên cả cuộc đời
nhỏ xuống rừng xanh
cho em Đông phương ngồi mộng
cho chiều Việt Nam tấp nập sắc màu
cho phương trời mở rộng
Quê hương
gập ghềnh đất mẹ đau thương
bước chân anh qua trùng trùng điệp điệp lá cây rừng
xuyên thung lũng qua ghềnh qua suối
Ôi thương quá quê hương buồn tủi|
mắt ngập ngừng mẹ khóc buổi ra đi
rừng núi Trà Mi
hai trăm bốn mươi giờ nghe lòng rưng rức.
Anh yêu em như yêu câu hò đất Bắc
yêu dòng Hương bởi tóc em buồn
áo trắng đan mau trên bãi sân trường
Anh thương quá quê hương mù khói súng
ôi xơ xác xóm làng Định Quán
nghèo Túc Trưng thơ trẻ cũng hãi hùng
mắt ngây ngô cô gái thẹn thùng
nhìn đoàn lính đi về qua Phước Lý
những em bé xinh xinh chiều Cát Lái
mời bánh ta, vui vẻ chuyện quân dân
và Tân Uyên rừng heo hút gió ngàn
đêm thao thức nhìn sao trời hoang vắng
anh đã băng dòng La Ngà trong nắng
nghe hồn rưng rưng thương đất thương người.
Em ơi!
mồ hôi anh đổ xuống
cho ruộng vườn cho ước mộng
cho mai sau trẻ con nhìn nhau thắm thiết
cho tình đầu không còn cách biệt
cho người người đi đến gần nhau
cho Việt Nam sông núi một màu
thương yêu ngập cả bầu trời bát ngát
Vì yêu em yêu đất yêu người nên hồn anh man mác
…quê hương!
mồ hôi anh đổ xuống ruộng vườn
ươm hy vọng thanh bình lên xứ sở

Nam Chương

(Thơ papa viết năm 1972, mình chép lại một ít vì papa không còn nhớ trọn bài)

Thứ Sáu, 12 tháng 3, 2021

Thơ Đỗ Nghê



Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông

(Bông hồng cho mẹ, Đỗ Hồng Ngọc, 2012)

Bài thơ này mình biết đến lần đầu khi phỏng vấn tác giả - bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong quán café Chiêu ở Quận 3, Sài Gòn. Chú và mình trò chuyện quanh quyển Thấp thoáng lời kinh, loanh quanh thế nào mà nói sang thơ ca, mình không còn nhớ rõ. Chú đọc cho mình nghe 4 câu đó, mình ấn tượng ngay. Những câu thơ nằm ngoài chủ đề câu chuyện nhưng mình vẫn tìm cách đưa vào bài viết. Trí nhớ mình đúng là thiên vị thơ, nhớ mãi 4 câu thơ từ hôm đó...

Với mình, ẩn sau "Bông hồng cho mẹ" là một ngày lễ dễ thương của văn hóa Phật giáo, văn hóa Việt: Lễ Vu Lan. Ẩn sau bài thơ giản dị đó là cả cái nhìn của phương Đông về hai cõi âm - dương. Mà thật ra, chẳng âm dương cách biệt gì cả, “ngoại”, “mẹ” và “con” đều ở đây, trong bài thơ nhỏ này, trong tâm tưởng của “con” - “con” nay đã nhìn về Còn - Mất trong cõi ta bà một cách nhẹ nhàng, an nhiên, dù đã bao mùa Vu Lan “con” cài hoa trắng, đóa hồng kia "con" “nhường” cho mẹ, mẹ ơi…

20 chữ thôi, mà khiến người đọc thấy cả ba “nhân vật” đều gần gũi, thấy yêu văn hóa Việt, yêu cuộc sống quá nhiều yêu thương và quá đỗi vô thường này…

Bẵng qua 5, 6 mùa Vu Lan, mình gặp lại bài thơ, lần này được in trong tập sách Thơ ngắn Đỗ Nghê (Đỗ Nghê là một bút danh khác của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc), không khỏi thấy vui, không khỏi muốn nghe chính lời tác giả vang lên, như buổi chiều năm nao…

Mình mang tập thơ về, để ở đầu giường, một hôm thức dậy, trí não còn ngái ngủ, quơ tay lên mở sách, đọc đúng một bài rồi gấp sách lại vì nước mắt chảy:

Ba dạy con
Mỗi ngày
Một chút

Không bài học nào
Như ba đã học
Từ con

Nỗi mất!

(La Ngà 5, 1990)

Mình may mắn chưa có trải nghiệm đau đớn như vậy về nỗi mất, vậy mà 19 chữ kia cứ như một vết cắt bất thần vào con tim nhỏ…Lại một câu chuyện của sống chết vô thường, của có - không - còn - mất, của cõi đời mong manh cõi lòng mong manh...

Đâu cần dông dài, đâu cần khoác áo gấm áo lụa cho ngôn từ, đâu cần chiều kích suy tưởng, thơ, đôi khi chỉ cần là tiếng nói chân thật giản dị của khoảnh - khắc - trái - tim - cất - lời - như - không - khác - đi - được, vậy mà cứa đau, vậy mà xoa dịu…Mối tương giao và tri âm giữa người thơ với người đọc, đôi khi cũng lạ lùng như thơ vậy.

Nãy giờ mình nhắc hai lần chữ “vô thường”, với cả tập thơ, đúng là lẽ vô thường, “bài học” có - không bàng bạc khắp trong cái nhìn về đất, nước, sóng, hơi thở, tình yêu, tuổi già, về buổi ngày, buổi đêm, về sợi tóc bạc, về tấm thân tứ đại này….

Tình thương ư? Có một nỗi nhớ rất “y học” thế này:

Thôi hết cồn cào
Thôi không quặn thắt

Chỉ còn âm ỉ
Chỉ còn triền miên

Thì thôi cấp tính
Thì đành kinh niên

(Nỗi nhớ, 1995)

Vô thường ư? Cái thấy của y học đi cùng với cái thấy của thiền học:

Ta bay vù vù trong không gian
Mà cứ tưởng nằm im
Trên gối

Mỗi ngày ta rơi rụng
Mỗi ngày ta phục sinh
Mà cứ tưởng không hề thay đổi…

(Vô thường)

Có một bài mang tên Về Thiền tập tác giả để cuối tập thơ, mình không chép lại ở đây, thay vì vậy, mình chép "bài thơ 2 chữ" tác giả nhắn cho mình, sau khi nhìn thấy cái tựa “giựt gân” không đúng tinh thần bài điểm sách trên 1 tờ báo mạng: "Thôi kệ!"

("Thôi kệ!", hai chữ đó, với con là “thơ ngắn Đỗ Nghê, là "thơ Trịnh Công Sơn", là "thơ thiền' đó chú Ngọc ơi! :) )

Trong lời đề tựa cho tập Kinh thi từ ngàn năm trước (mà Đỗ Hồng Ngọc có dẫn lại), Chu Hy viết rằng thơ là giọng điệu cung bực “như không thôi đi được” của “những cái ý nhị không thể nói hết ra được mà hình hiện ở trong lúc ngậm ngùi ngợi than”.

Nghĩ về thơ như thế, cảm thơ ai, cảm thế nào ắt phải tùy tạng người, tùy khoảnh khắc, tùy không gian, tâm thế…, thật không dễ luận bàn, có phải? Như dễ gì lại có một sớm mai, 1 bài thơ nhỏ đánh thức một đứa người lớn đang ham ngủ vùi.

Ảnh: Một trong những minh họa của chính tác giả trong tập sách. Mình thích bức này, vì rất “Bình Thuận thân thương”

Gọi xa xôi



"Thường thì đọc thơ có hiểu không, chị gửi tặng?" .

Tư hỏi. Tư vẫn hay làm mình bật cười với những trao đổi kiểu vậy. Thích sự nam tính trong những trò chuyện kiệm lời của Tư. Thích sự thông minh lém lỉnh tỉnh táo của Tư. Tỉnh táo, nên Tư có sự tự tại, độc lập - điều mình rất quý ở chị, bên ngoài trang viết.

Ở tập thơ Gọi xa xôi này của Tư sau Chấm, có 2 câu này sáng nay làm mình dừng lại...hình dung:

Nghĩ một bông hoa xanh nở ba năm vừa rụng
mình sẽ chịu tang bao lâu?
(Hình dung)

Tập thơ mỏng tang mà "chế" bắt mình lặn mấy khúc "sông sâu" vào những tâm cảm, tầng nghĩa dường như muốn giấu đi. 

Mà, đâu cần hiểu hết đâu, một khi ngôn ngữ thi ca (khá tiết chế, chắt lọc của Tư) đã giăng vào cuộc lặn của ta một đôi miền khói đẹp. Nước nghĩa của Thơ qua con mắt của kẻ thứ hai thường ít nhiều trầy xước, nhưng khói chữ thì vẫn bay...

Chép lại ở đây hai bài "có hiểu" :).

Chị gái

Cho chị một con đường,
anh đến và đường mang anh đi biệt
cho chị đám mây đỡ nắng
mây nông nổi làm mưa

cho chị một ngôi nhà
ngôi nhà nhốt chị giữa trăm lần vách
cho chị một căn bếp
khói vô tâm lấp mất người

cho chị chiếc giường
chới với chạm bờ chiếu trống
cho chị chiếc khăn
ướt đầm không thấm hết muối xương

cho chị giấc mơ núi xanh sông bạc
mơ phấp phỏng một người lẩn khuất
cho chị một thênh thang
ừ, thênh thang nhiều mấy cũng vừa

Về

Đến cổng vừa hay sen nở
cánh sen đỡ lấy ngọn gió
chìa khóa rơi khỏi tay
cánh cổng lèo nhèo ngái ngủ

Về úp mặt vào nước
gội sạch ảo ảnh người
úp mặt vào gối
nghe vị mặn nào không phải mồ hôi

Về úp mặt vào khói
mượn xót cay giấu cay xót đường xa
ngọn củi thắp lên
khói có là bao mà nước mắt

Về úp mặt vào rốn con
trẻ cười ngắt nghẽo
trên dấu vết chia lìa
ngọn gió sinh mệnh cả hai dào dạt cùng nhau

Nguyễn Ngọc Tư

P.S: Đặc biệt thích tranh của tập này, hợp với thơ Tư

2018.

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2021

"Quê hương tôi là đây"



Quê hương tôi là đây
Chỉ có dòng sông, hàng cau, bụi tre, vườn chuối
Mặt Trái đất dù mang đầy cát bụi
Nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm rằm.


(Chỗ đứng, Thích Nhất Hạnh)

Những lúc chạy xe máy xuyên các tỉnh thành phương Nam, xuyên những đường làng quanh co, quanh co, mình luôn nhớ bài thơ nớ. Dễ gặp nhất trên đường là các bụi chuối. Bài thơ vì thế trở đi trở lại trong đầu trên những đoạn đường ngát xanh. Dòng sông nào, hàng cau nào, vườn chuối nào, bụi tre nào…cũng trở nên tràn đầy thi tính.

Chỉ bốn câu giản dị vậy thôi, mà nhắc ta nhìn sâu vào mặt đất này, nhìn sâu vào bầu trời này, nhìn sâu vào quê hương yêu dấu này - lầm than tối mịt đấy, sáng rỡ trong veo đấy, và cất giấu li ti bao nhiêu là hồn Việt ở đấy…

Trăng sao mọc trên bầu trời quê có khác trăng sao xứ người không? Chỉ biết, Rằm thì …Việt từ trong con chữ, trong hồn người, trong tình yêu và Tín tâm của người Việt, của bao bà mẹ quê ngưỡng vọng sự sạch, lành, chay tịnh; lo lắng tỉ mỉ cho “24 giờ tinh khôi” của ngày Rằm, từ chén chè hạt sen bàn thờ Phật đến nải chuối, trái cau bàn thơ ông bà. Bao nhiêu là vị của Rằm, để nhớ thương quê Việt...

Có ai từng đi xa mà không muốn quay về, về với “trăng sao vẫn đẹp những đêm rằm” đấy không?

Đó chỉ là một bài - thơ - nhỏ - mình - nhớ - hoài, chứ hồn Việt, "gia sản văn hóa Việt" trong những bài thơ của nhà thơ Việt Nam Nhất Hạnh còn rất nhiều, rất nhiều, như những câu vừa được nghe lại từ link anh bạn dẫn:


Quê hương thân yêu ngát hồ sen thơm
Quê hương hàng dừa ven sông
Ruộng đồng vươn vai cười theo bông lúa
Ruộng đồng vươn vai
Cười mưa vui nắng trăm mùa.
Đất mẹ cho em hương quế tần ô
Tía tô rau húng rau ngò mầu nhiệm
Mai đây xanh tươi núi đồi quê hương
Mai đây lộc đời lên nhanh
Ngọt lời ca dao, trần gian vui hát
Ngọt lời ca dao, màu xanh đưa bước chân người.

(Trích Ý thức em mặt trời tỏ rạng)

Đọc bài thơ này không ít lần, mà sáng nay ứa nước mắt, khi nghĩ về những hương tần ô hương tía tô hương húng cọng ngò, những nhớ thương "đưa bước chân người", những cuộc đi - về của một Người yêu đất mẹ...

P.S: Ảnh mình chụp tác giả và tăng thân Làng Mai trong chuyến về Huế năm 2005

30.8.2017


Thứ Năm, 3 tháng 11, 2016

Don't...

Đừng đặt mắt anh vào khuôn mắt em
có thấy bàn tay em xoay tròn trên tách lạnh?
Đừng phả thêm hơi ấm vào giọng nói em
có nghe thấy em - những khoảng lặng?
Đừng gần em, gần em
bằng ánh nhìn, bẳng hỏi han, bằng dáng ngồi nghiêng, bằng tiếng muỗng đũa trong buổi cơm bất ngờ hội ngộ
Em đâu muốn biến thành cô gái nhỏ chỉ biết nhoẻn cười bối rối
Nên đừng,
đừng chế ngự em
bằng anh, bằng anh, bằng anh...

Thứ Ba, 19 tháng 4, 2016

Cho KiraKira 14

Mong bầy em ngày gặp
Mắt cười, môi ô, a
Ồ! Cặp mới, áo mới
A! Có cả áo mưa
"Đồ bọc chân" xịn quá
Chỉ dành đến lớp thôi!

Mong bầy em mùa hạ
Dù lên rẫy, xuống sông
Vẫn nhiều hôm gối nhỏ
Hồn ê a sách hiền
"Truyện này của riêng tớ
Chẳng phải mượn của ai".

Ngày khai truờng chẳng ngại
Quần đã cao ống chân
Tập còn chưa mua đủ
Bút cùn ngang ngón tay
...
Mở từng món quà thơm
Đến truờng thêm vui lạ!

Thuơng bầy em chưa gặp
Vẽ "lấp lánh" từ xa
Tìm nhau, chờ nhau nhé
Giữ nụ cuời bé thơ...

P/S: Nhớ câu "Trẻ em nào cũng xứng đáng có quà", viết cho các bạn nhỏ sẽ nhận quà khai trường của KiraKira lần 14 vào tháng 5 này, trên đường chạy xe từ chỗ làm về nhà.

Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2016

Ngồi

Đâu có cần đưa nhau đi đâu thật xa
Mình chỉ cần dăm chiếc ghế con
Ngồi túm tụm
Nhìn nhau một ngụm
Nghe nhau một hồi
Chuyện buồn chuyện vui chuyện tài tử văn nhân người quen nguời lạ...
Vậy mà vui...
Vui thanh âm quyện ấm
Vui tình thân
tình thân không lời
Vui đèn vàng soi góc tối
Vui trái đất quay vòng
Những dấu chấm gặp nhau.

P/S: Nhân một buổi tối ở BK6 với anh Lâm, anh Quý.

Thứ Hai, 10 tháng 8, 2015

Sâm & Hạ

Giữ một tơ rơi

Thôi chúng mình cứ nhìn nhau, xa vắng

Đừng nói nhau nghe những nỗi thật thà
Một hơi thở cũng đủ làm náo động
Những ấm nồng vừa yên ngủ, hôm qua

Thôi chúng mình cứ thương nhau trong dạ
Anh đừng nhìn đôi vai nhỏ rưng rưng
Em đừng đếm những nếp nhàu trong mắt
Vạn âu lo mình giấu nốt, như từng

Anh hãy vui bên kia đồi cỏ ngọt
Em ngút xa tựa chim nhỏ cuối trời
Ta đâu thể quay về ngày xanh biếc
Nên lặng im nhìn tha thiết, phai phôi

Mình hãy giữ giùm nhau tình thấm mệt
Như ân cần ngồi giữ một tơ rơi.

29.7.2015
Sâm Cầm

P/S: Thơ của cô bạn nhỏ Sâm Cầm, đọc rất thấm trong buổi chiều...nghiện Kurt Cobain, xót mình "going where the cold winds blow"...
Chữ Tơ rơi trong câu cuối và tựa, như Sâm nói, là em nhớ "Tơ rơi" của em Hạ. Tơ rơi đó ở đây.

Lưu lại ở đây hai mẩu nhỏ "giới thiệu" hai thiếu nữ 'Kira" đáng yêu này:

Thơ Sâm Cầm: Là một tác giả thơ vừa được độc giả biết đến qua giải nhất của cuộc thi thơ trên mạng xã hội Facebook - Lời tỏ tình đầu tiên, nhưng Sâm Cầm không phải là cái tên lạ với nhiều blogger yêu thơ. Nhiều bài thơ tình của cô vẫn được những cô gái “đang tuổi yêu” chia sẻ với nhau, bởi niềm đồng cảm về những giấc mơ tình yêu, những bối rối, luýnh quýnh, dỗi hờn, yêu thương rất là con gái. Và hơn cả thế, người đọc tìm thấy trong thơ Sâm Cầm một mùi vị trong veo vẫn luôn lẩn khuất đâu đó, sau những da diết đầy nữ tính.
Sâm Cầm tên thật là Võ Hoài Sâm, sinh năm 1983, đang sống và làm một công việc liên quan đến sách thiếu nhi tại Sài Gòn.

Gương : 25 tuổi, đang làm biên tập - phát thanh viên của chương trình Khúc nhạc tình trên sóng FM của Đài Tiếng nói nhân dân TP.HCM, Hạ Tuyên tự gọi mình là “cô - em - không - tìm - được - tính - từ - nào - để - mô - tả” và xem viết lách “như một lời tự thú, một thế giới ở phía sau”. 
Đây là truyện ngắn thứ hai tác giả gửi đến độc giả Tuổi Trẻ Cuối Tuần, sau Tơ rơi (Tuổi Trẻ Cuối Tuần số ra ngày 18-6-2010). Dù là những truyện ngắn đầu tay, Hạ Tuyên đã cho thấy một giọng riêng khó lẫn, với những con chữ “âm u” mà rung vang, như tiếng gàu thả rơi - lúc nhẹ nhàng, lúc cuống vội ngả nghiêng - trong lòng giếng cũ sâu...“Lòng giếng sâu” ấy cũng là không khí truyện của Hạ Tuyên, cho thấy sau những mộng mị phơi bày vẫn còn thăm thẳm điều giấu kín, khi một người thiếu nữ ngồi kể mà như không kể, một đoạn tình im vang...