Bạn bè của em ai đến thăm, cũng đùa một mái nhà tranh hai quả tim
vàng. Còn lũ trẻ ở phố: “A! Tụi bây ơi, ở đây có cái chuồng bò.”
Có lẽ tụi nhỏ nói đúng, vì trước đó một ngày, bác Tư và ta vừa
lợp xong mái nhà bằng những liếp rạ được đan dày. Mái rạ chưa kịp cắt bằng, nên
rủ xuống lòa xòa không thứ tự và bốn vách nhà cũng chỉ cũng chỉ mới được kẹp vài
sườn bằng những cây le xanh mướt. Trẻ con ở phố chắc không bao giờ thấy một cái
nhà như thế, nên chúng gọi chuồng bò cũng có lý. Gọi là “lều cỏ của chúng ta”
như em thường nói, cũng hay.
Vâng, chỉ là cái lều cỏ của đôi vợ chồng mới cưới, mà ta như con chim tha mồi về làm tổ, phải “tha” từ rừng về nào cột, nào tre, nào le… suốt 4 tháng trời mới đủ để xây một cái tổ 30 m². Lại còn lên ruộng cắt rạ về đan thành từng miếng, thay thế tranh để lợp. Những buổi chiều gánh rạ về nhà, con đường dài hơn 2,5 km, nhưng vì ngược gió nên ta chỉ có thể bước đi từng bước nặng nề, chậm chạp. Đồng trống, gió lồng lộng thổi, gió như muốn lật quang gánh ra phía sau, suýt mấy lần tuột khỏi vai. Gió xoáy thổi hai đầu gánh xoay vòng vòng, khiến ta cũng chuệnh choạng quay theo. Ta phải dang đôi tay, đè mạnh hai đầu gánh xuống vai và có cảm tưởng như ta đang dùng vai và tay kéo gánh rạ ra khỏi cánh đồng gió.
Vâng, chỉ là cái lều cỏ của đôi vợ chồng mới cưới, mà ta như con chim tha mồi về làm tổ, phải “tha” từ rừng về nào cột, nào tre, nào le… suốt 4 tháng trời mới đủ để xây một cái tổ 30 m². Lại còn lên ruộng cắt rạ về đan thành từng miếng, thay thế tranh để lợp. Những buổi chiều gánh rạ về nhà, con đường dài hơn 2,5 km, nhưng vì ngược gió nên ta chỉ có thể bước đi từng bước nặng nề, chậm chạp. Đồng trống, gió lồng lộng thổi, gió như muốn lật quang gánh ra phía sau, suýt mấy lần tuột khỏi vai. Gió xoáy thổi hai đầu gánh xoay vòng vòng, khiến ta cũng chuệnh choạng quay theo. Ta phải dang đôi tay, đè mạnh hai đầu gánh xuống vai và có cảm tưởng như ta đang dùng vai và tay kéo gánh rạ ra khỏi cánh đồng gió.
Rồi túp lều cỏ cũng lợp xong, ta lợp, em nhắc ghế cao đưa từng
tấm rạ lên nóc nhà. Lúc đó, em đã có thai Nam Quốc được hai tháng, vừa lợp, ta
vừa nhắc em cẩn thận, khéo té …
Nhà lợp xong, nhưng mãi vài tháng sau vẫn chưa có tiền mua lá về
dừng vách. Mẹ em dùng bao cát may lại thành một tấm bạt đủ che chung quanh cái
giường tre vừa mới mua. Còn thì bốn bề trống hoắc, mặc cho trăng sao, nắng gió
vào nhà; mặc cho cát bụi và lá vàng thăm viếng; mặc cho những chú sẻ nâu ríu rít
trên khung vách và rắn lục bò vào trú ẩn khi trời mưa. Mái rạ khi trời nắng thì
nở bung giòn khấu, nhưng khi trời mưa thì se lại xẹp lép nên nước dột tứ bề, dột
như ở dưới một tán lá cây.
Mỗi lần trời mưa, em chỉ còn biết lật đật ôm gối mền,
chun xuống ngồi dưới bàn thờ Phật. Còn ta, loay hoay che chỗ này, hứng chỗ kia.
Cũng may, khi mùa mưa đến, ta đã dừng xong bốn vách lá nên cũng đỡ lạnh. Bàn thờ
nhỏ, một mình em với mền gối áo quần là chật. Còn ta, đội nón nhìn thềm nhà ướt
sủng, loay hoay tìm một góc ít dột nhất để ngồi. Em vừa kêu trời vừa cười đùa
với ta. Có lúc cả hai còn đọc thơ để khỏi phải suy nghĩ, để khỏi nghe gió mưa,
sấm sét vần vũ ngoài trời. Nhưng, có thật là chúng ta an nhiên tự tại không hở
em? Có thật là em không mệt mỏi vì ngồi thu lu dưới bàn thờ với cái thai trong
bụng? Có thật là lòng ta không nặng trĩu bởi những hạt mưa rơi? Có thật là em
không khóc vì tủi cực? Có thật là lòng ta nhẹ nhàng như những vần thơ ta đọc cho
em nghe?
Thế đấy, một tình yêu ta với em nuôi dưỡng hơn 5 năm, một mối
tình kỳ ngộ của duyên nghiệp đã đưa ta – một kẻ lãng tử - về với em. Và rồi,
lịch sử năm 1975, ông tơ bà nguyệt đã “giam” đôi ta trong túp lều cỏ dột nát
này.
Túp lều mà suốt 25 năm, ta cùng em chia sẻ ngọt bùi bởi gió giông
nắng táp. Đêm ngủ thấy trăng sao, ban ngày ngắm hoa nắng nhảy múa khắp nền nhà.
Từ mái rạ đến mái tranh, rồi lá già, sang lều bạt, sang giấy dầu… Hai mươi lăm
năm, 12 cây cột căm-xe nhỏ bé vẫn đứng vững thật kiên cường, làm tổ ấm mầu nhiệm
cho ba đứa con lần lượt ra đời trên chiếc giường tre mua sau ngày cưới. Những cô
mụ đến nhà đỡ đẻ, những tiếng khóc oe oe chào đời từ Nam Quốc, Linh Thoại rồi
Lan Nhã.
25 năm ta và em cày cục tất bật để nuôi con khôn lớn nên người. Cho đến
đầu năm 2001, Nam Quốc ra trường làm ở Bưu điện Dak Lak được hai năm, Linh Thoại
còn vài tháng nữa làm luận văn tốt nghiệp khoa Báo chí, Lan Nhã năm thứ 3 khoa
Trung Văn, thì túp lều cỏ tự mục, vài chân cột đong đưa như chiếc võng. Đã đến
lúc giã từ nó, xây một ngôi nhà bằng gạch cấp bốn 24 m² bằng sự trợ cấp từ bạn
bè của em và Nam Quốc.
Hết rồi những đêm mất ngủ vì mưa. Hết rồi những tấm ni-lon giăng
chằng chịt khắp nhà để đỡ dột và đỡ mọt từ giàn le đổ xuống. Hết rồi những lo âu
vì sợ trộm đào đất chun vào nhà ăn trộm hết hàng hóa của cái quán tạp hóa nhà
mình. Hết rồi cửa lá then cài, giăng lon, giăng thùng ngừa trộm.
Và 2002, Lan Nhã ra trường, tất cả 3 anh em đều có công ăn việc
làm ổn định. Túp lều cỏ không còn, ngôi nhà cấp 4 đón thêm một thành viên mới,
vợ Nam Quốc – Tường Vi. Ngôi nhà mà chỉ một lần sum họp rồi mãi mãi chia xa…
(Trích nhật ký ba mẹ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét